Lượt xem: 1063

Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh đồng chí Lê Đức Thọ (10/10/1911 – 10/10/2021): Lê Đức Thọ - người cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo tài năng

Đồng chí Lê Đức Thọ là một người cộng sản kiên cường, một nhà lãnh đạo tài năng, một trong những học trò xuất sắc, cộng sự thân cận của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí đã có nhiều cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Chúng ta có thể thấy những đóng góp nổi bật của đồng chí trên nhiều lĩnh vực - Lê Đức Thọ với cách mạng Việt Nam; Lê Đức Thọ với miền Nam; Lê Đức Thọ với công tác tổ chức xây dựng Đảng; Lê Đức Thọ với công tác ngoại giao; Lê Đức Thọ với công tác quốc phòng - an ninh; và nhà thơ Lê Đức Thọ…

    Đồng chí Lê Đức Thọ, tên thật là Phan Đình Khải, sinh ngày 10/10/1911 tại xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, nay là xã Nam Vân, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Đồng chí được sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho thuộc phủ Thiên Trường xưa, nơi phát tích của Vương triều Trần với hào khí Đông A nổi tiếng; vùng đất có truyền thống yêu nước, hiếu học trong lịch sử. Vì vậy thấm đẫm trong đồng chí Lê Đức Thọ là tinh thần yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc. Khi 14 tuổi lên thành phố Nam Định học tập, đây là trung tâm công nghiệp dệt lớn nhất Đông Dương thời bấy giờ, một trong những cái nôi của giai cấp công nhân Việt Nam, nơi phong trào yêu nước và cách mạng phát triển rất mạnh. Lê Đức Thọ đã hòa mình vào các hoạt động của học sinh, hăng hái tham gia phong trào biểu tình, bãi khóa, đấu tranh đòi thực dân Pháp thả nhà yêu nước Phan Chu Trinh. Năm 15 tuổi, tiếp xúc với tư tưởng yêu nước do các hội viên của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên truyền bá, được giác ngộ lý tưởng cách mạng, đồng chí đã tích cực tham gia các hoạt động trong học sinh. 17 tuổi, đồng chí đã đứng trong đội ngũ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Được đấu tranh và rèn luyện trong tổ chức cách mạng, đồng chí đã đem nhiệt huyết của tuổi trẻ đấu tranh chống áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến và vinh dự được kết nạp vào Đông Dương cộng sản Đảng (tháng 10/1929) khi mới 28 tuổi, thuộc lớp đảng viên cộng sản đầu tiên của Đảng ta.


Đồng chí Lê Đức Thọ tại Trung ương Cục miền Nam năm 1968. Ảnh tư liệu

  

    Ngày 7/11/1930, đồng chí bị thực dân Pháp bắt giam, tra tấn dã man và ngày 27/01/1931, bị tòa án thực dân kết án tù khổ sai chung thân. Đồng chí đã kiên quyết đấu tranh, chống án, buộc Tòa Thượng thẩm thực dân phải giảm mức án xuống 10 năm khổ sai và đày ra nhà tù Côn Đảo, nơi được coi là “địa ngục trần gian”. Tại đây, đồng chí được tín nhiệm cử vào Ban Thường vụ Chi ủy nhà tù và Bí thư chi bộ. Năm 1936, trước sức đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân ta và phong trào Bình dân ở Pháp, bọn thực dân ở Đông Dương phải trả tự do cho một số tù chính trị, trong đó có đồng chí Lê Đức Thọ. Đồng chí trở lại quê hương Nam Định, tiếp tục hoạt động cách mạng, gây dựng một số cơ sở bí mật của Đảng ở Nam Định, xây dựng đại lý phát hành sách báo để tuyên truyền sách báo của Đảng, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê nin; cùng tập thể cấp ủy Nam Định lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân theo hướng đòi dân sinh, dân chủ.

    Năm 1939, biết rõ đồng chí Lê Đức Thọ là một trong những cán bộ lãnh đạo chủ chốt phong trào cách mạng ở Nam Định, thực dân Pháp cho mật thám theo dõi, khám xét, bắt đồng chí và khép tội “phần tử nguy hiểm cho an ninh”. Tháng 9/1939, chúng kết án 5 năm tù và lưu đày đồng chí tại các nhà tù Hỏa Lò - Hà Nội và Sơn La, Hòa Bình. Trong lao tù độc ác của bọn thực dân, bị địch tra tấn dã man, đồng chí vẫn luôn luôn nêu cao khí tiết của người cộng sản, kiên cường, bất khuất, dũng cảm đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của địch, biến nhà tù thành trường học cách mạng, thành nơi đào tạo cán bộ của Đảng, thường xuyên tổ chức học tập chính trị, lý luận cách mạng, động viên bạn tù giữ vững tinh thần chiến đấu. Đồng chí nói “Người cách mạng bất kỳ ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng phải chăm lo việc học tập để nâng cao trình độ, cống hiến được nhiều hơn cho phong trào”(1). Trong thời kỳ hoạt động bí mật, đồng chí đã 3 lần bị địch bắt, hai lần bị kết án, những năm lưu đày, khổ sai khắc nghiệt trong nhà tù đã tôi luyện trong đồng chí Lê Đức Thọ ý chí cách mạng bất khuất và lòng kiên trung với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân.

    Năm 1944, hết hạn tù, đồng chí được Đảng phân công về hoạt động ở An toàn khu (ATK) của Trung ương, phụ trách công tác đảm bảo bí mật, an toàn cho ATK. Tháng 8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân đồng minh vào Đông Dương. Tại Hội nghị, đồng chí được cử vào Thường vụ Trung ương Đảng, trực tiếp tham gia cùng tập thể Ban Chấp hành Trung ương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát động và lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi.

    Khi nước nhà mới giành được độc lập, đồng chí được Đảng giao phụ trách công tác tổ chức Đảng; cùng với một số đồng chí lãnh đạo khác của Đảng có công lớn trong việc giúp Trung ương bố trí, phát triển lực lượng Đảng, đoàn thể, xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng. Trong những điều kiện hết sức khó khăn, phức tạp, vừa chống thù trong, vừa chống giặc ngoài, đồng chí đã chỉ đạo tốt công tác bảo vệ chính quyền, giữ vững và phát huy thắng lợi của cách mạng, kịp thời chuẩn bị cho đất nước bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược.

    Năm 1948, đồng chí được cử thay mặt Trung ương Đảng trong Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ vào miền Nam trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân Nam bộ. Được giao trọng trách Phó Bí thư Xứ ủy Nam bộ (năm 1949) và sau đó làm Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Cục miền Nam (từ 1949 - 1954). Ngay sau khi tới căn cứ của Xứ ủy Nam bộ ở Đồng Tháp Mười, đồng chí Lê Đức Thọ đã cùng Thường vụ Xứ ủy chăm lo xây dựng kiện toàn bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo của Xứ ủy, củng cố và thành lập mới các ban chuyên môn, như: Ban Tổ chức, Ban Dân vận, Ban Công vận, Nông vận, Thanh vận, Tôn giáo, Hoa vận, Khmer vận...; cử nhiều cán bộ của Xứ ủy trực tiếp xuống các khu, tỉnh để nắm rõ tình hình và chỉ đạo phong trào; đảm bảo giữ mối liên hệ trực tiếp và thông suốt với Thường vụ Trung ương Đảng và Bác Hồ. Sau khi rời khỏi căn cứ của Xứ ủy Nam bộ từ Đồng Tháp Mười xuống miền Tây Nam bộ, đồng chí chủ động đặt vấn đề với Thường vụ Xứ ủy xây dựng Trường Trường Chinh, mở lớp huấn luyện, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của cán bộ tỉnh, khu và là một trong những giảng viên chủ yếu của các lớp huấn luyện, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ Nam bộ vừa có trình độ lý luận chính trị, vừa có thực tiễn đấu tranh cách mạng. Nhờ đó, các hoạt động chỉ đạo của Đảng có sự thống nhất, thông suốt, chặt chẽ, hiệu quả, góp phần đưa cuộc kháng chiến của Nhân dân Nam bộ phát triển, giành được những thắng lợi vẻ vang, xứng đáng với danh hiệu vẻ vang “Thành đồng Tổ quốc”.

    Sau Hội nghị Giơnevơ 1954, đồng chí Lê Đức Thọ được điều ra miền Bắc công tác và được bổ sung vào Bộ Chính trị (cuối năm 1955), được Bộ Chính trị phân công làm Trưởng Ban Tổ chức Trung ương (năm 1956). Dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và trực tiếp của đồng chí Lê Đức Thọ, Ban Tổ chức Trung ương đã tổ chức thành công Hội nghị toàn quốc về công tác tổ chức của Đảng. Hội nghị đã phân tích sâu sắc tình hình công tác tổ chức, xác định chuyển hướng công tác tổ chức và cán bộ theo yêu cầu cách mạng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Trong bối cảnh tình hình nhiệm vụ và yêu cầu mới của cách mạng, cùng với các đồng chí trong Bộ Chính trị và tập thể Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí Lê Đức Thọ đã tập trung sức lực, trí tuệ vào việc xây dựng, kiện toàn bộ máy lãnh đạo của Đảng; xây dựng, quản lý và bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng ở cả hai miền Nam - Bắc.

    Tại Đại hội III của Đảng, đồng chí thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình bày Báo cáo về xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng năm 1951. Báo cáo xây dựng Đảng và Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ III (năm 1960) xác định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, ghi nhận một bước phát triển của Đảng ta trong công tác xây dựng Đảng. Đồng chí rất quan tâm đến công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, nghiên cứu lịch sử Đảng. Đặc biệt, trên cương vị là Trưởng Tiểu ban nhân sự (Đại hội III đến Đại hội IV), đồng chí đã có nhiều đóng góp giúp Bộ Chính trị chuẩn bị tốt việc bầu Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tại Đại hội.

    Trên cương vị là người đứng đầu Ban Tổ chức Trung ương, đồng chí Lê Đức Thọ luôn nhắc nhở và yêu cầu cán bộ làm công tác tổ chức phải đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu từng cán bộ thuộc trách nhiệm quản lý, hiểu rõ trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức cán bộ thông qua việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, trên cơ sở đó tham mưu cho lãnh đạo cất nhắc, điều động cán bộ cho đúng người, đúng việc. Đồng chí nhắc nhở cán bộ tổ chức phải trung thực, công tâm, khách quan, không được cậy quyền thế, không lộng quyền. Ghi nhận công lao to lớn của đồng chí Lê Đức Thọ đối với công tác tổ chức, Đảng ta khẳng định “Trong nhiều năm phụ trách công tác tổ chức cán bộ của Đảng, là lĩnh vực công tác rất khó khăn, phức tạp, Đồng chí đã để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích đối với công cuộc đổi mới hiện nay(2). Về mặt lý luận, đồng chí Lê Đức Thọ cũng có nhiều bài viết về công tác xây dựng Đảng. Nhân kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng (1960), trên Tạp chí Học tập, đồng chí viết “Những bài học chủ yếu về xây dựng Đảng”, chỉ ra 5 bài học: (1) Gắn chặt công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức với nhiệm vụ chính trị của Đảng; (2) Lấy việc xây dựng về tư tưởng làm chủ yếu trong công tác xây dựng Đảng; (3) Giữ vững nguyên tắc tổ chức trong sinh hoạt nội bộ của Đảng; (4) Nắm vững tính chất Đảng trong việc phát triển và củng cố đội ngũ của Đảng; (5) Đi đường lối quần chúng trong tác phong lãnh đạo của Đảng.

    Năm 1967, đồng chí được cử vào Quân ủy Trung ương. Sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, được Bộ Chính trị cử vào miền Nam làm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Từ tháng 5/1968, đồng chí làm cố vấn đặc biệt của Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Paris, trực tiếp đàm phán với Mỹ về việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Với bản lĩnh của một nhà chính trị già dặn, bằng tài trí, sự khôn khéo, linh hoạt, sáng tạo trong từng phương án cụ thể, đồng chí đã thực hiện phương châm kiên trì đấu tranh, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi cuối cùng. Đồng chí là người góp phần to lớn vào việc buộc Hoa Kỳ phải ký kết Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

    Trên cương vị là đại diện của Bộ Chính trị chỉ đạo cuộc Tổng tiến công, nổi dậy mùa Xuân 1975 và tham gia chỉ đạo chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng chí đã góp phần quan trọng, cùng quân và dân cả nước thực hiện trọn vẹn mong ước của Bác Hồ: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đối với sự nghiệp cách mạng quốc tế, đồng chí Lê Đức Thọ đã có nhiều đóng góp lớn lao trong việc ủng hộ, giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng do chế độ Khmer Đỏ gây ra, thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta.

    Đồng chí Lê Đức Thọ là một nhà lãnh đạo có tài năng về nhiều mặt, trong đó công tác tổ chức của Đảng là sự nghiệp hầu như suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Lê Đức Thọ. Đồng chí đã góp phần vào việc phát triển lý luận về xây dựng Đảng của một Đảng cầm quyền, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng chí là người trực tiếp chỉ đạo xây dựng Tạp chí Xây dựng Đảng và có nhiều bài viết sâu sắc về công tác tổ chức của Đảng được đông đảo cán bộ, đảng viên quan tâm nghiên cứu và vận dụng và tháng 12/1986, đồng chí được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng đồng chí vẫn đau đáu, trăn trở yêu cầu mỗi cá nhân, tập thể cần: “Giữ gìn, phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất của Đảng, thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tiến hành phê bình và tự phê bình thường xuyên trong sinh hoạt Đảng(3).


Cái bắt tay lịch sử giữa Cố vấn Lê Đức Thọ với Cố vấn Henry Kissinger sau khi ký Hiệp định Paris. Nguồn: VOV.VN

 

    Trong cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, với cương vị Cố vấn đặc biệt của Đoàn đại biểu Chính phủ ta, đồng chí Lê Đức Thọ đã thể hiện năng lực của một nhà ngoại giao tài ba, nhà thương thuyết có tầm nhìn chiến lược, khôn khéo, “vừa đánh, vừa đàm”, kiên quyết về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược. Trong các cuộc đàm phán trực tiếp công khai và nói chuyện với đại diện Chính phủ Mỹ, đồng chí đã chủ động tiến công ngoại giao đến cùng với Mỹ kéo dài trong hơn 5 năm tại Thủ đô Paris, đã làm thất bại mọi âm mưu và phá sản mọi con bài ngoại giao của Mỹ, thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “đánh cho Mỹ cút”. Thắng lợi của cách mạng nước ta tại Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam là thắng lợi của trí tuệ, thắng lợi của chính nghĩa, thắng lợi của một dân tộc anh hùng, dưới sự lãnh đạo của Đảng chân chính có đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo, trong chiến thắng này có đóng góp quan trọng của đồng chí Lê Đức Thọ. Những hoạt động ngoại giao của đồng chí Lê Đức Thọ tại Hội nghị Paris đã để lại một số bài học kinh nghiệm quý cho nền ngoại giao Việt Nam. Cũng từ hoạt động ngoại giao nổi bật này, đồng chí Lê Đức Thọ từng được trao tặng giải Nobel Hòa bình cùng với cố vấn ngoại giao Henry Kissinger vào năm 1973, nhưng ông đã từ chối nhận giải với lý do đất nước Việt Nam chưa thể có được hòa bình chừng nào chưa đánh đổ được chế độ tay sai của Mỹ. Đó là giải Nobel duy nhất dành cho người Việt cho đến nay. Đúng như nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên khẳng định về ông: “Ông là nhà ngoại giao khổng lồ. Ông khổng lồ ở chỗ đối phương đối thoại với Lê Đức Thọ là Kissinger, một học giả rất lớn của Mỹ thời đó. Lúc đó, Kissinger rất ngạo mạn, những tưởng có thể đè bẹp Lê Đức Thọ nhưng không thể được. Ví như làm thế nào để thống nhất được với Mỹ về vấn đề Mỹ phải rút quân. Mỹ muốn nếu Mỹ rút quân thì miền Bắc cũng phải rút quân khỏi miền Nam, đánh đồng như thế không thể được. Cuối cùng đồng chí Lê Đức Thọ đưa ra một công thức đó là vấn đề quân đội Việt Nam ở lãnh thổ Việt Nam do các bên Việt Nam giải quyết với nhau. Còn việc Mỹ rút quân là chuyện Mỹ phải rút. Tôi nghĩ trí tuệ của ông ở chỗ tìm một giải pháp đúng với lợi ích của (Quốc gia) mình”(4).

    Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh, với tư duy sắc sảo và cái nhìn nhạy bén, đồng chí Lê Đức Thọ được đánh giá là một chiến sĩ kiên cường, một cán bộ lãnh đạo dày dặn kinh nghiệm về nhiều lĩnh vực đặc biệt là về chính trị, quân sự và ngoại giao, tổ chức cán bộ, xây dựng Đảng… nhất là có những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng, tổ chức lực lượng, đội ngũ cán bộ quân đội phục vụ cho kháng chiến ở miền Nam; đồng chí thường căn dặn: “Phải xây dựng, củng cố Đảng trong lực lượng vũ trang, trong công an, trong vùng bị địch tạm chiếm, phát triển Đảng phải luôn luôn đi đôi với củng cố Đảng, phải dìu dắt đảng viên mới trong công tác thực tế, phải mở lớp huấn luyện ngắn ngày cho họ. Phải luôn chăm lo củng cố chi bộ. Thực hiện phê bình và tự phê bình, phải luôn luôn đề cao cảnh giác, đề phòng bọn địch chui vào Đảng, phá hoại Đảng từ bên trong(5). Khi tới Xứ uỷ Nam bộ, đồng chí bắt tay ngay vào nhiệm vụ được giao. Công việc đầu tiên là cùng với Thường vụ Xứ uỷ(6) rà soát lại cán bộ các cấp uỷ đảng ở các khu uỷ, tỉnh uỷ, đặc khu uỷ. Đây là việc làm hết sức quan trọng. Bởi cấp uỷ đảng các cấp là đầu não của phong trào cách mạng ở địa phương. Đầu não có trong sạch, vững mạnh thì phong trào địa phương mới vững mạnh. Qua việc rà soát này, đồng chí Lê Đức Thọ đề nghị với Thường vụ Xứ uỷ một số biện pháp khẩn cấp nhằm chấn chỉnh, kiện toàn ngay một số cấp uỷ thuộc Xứ ủy. Ngoài ra, ông cũng có những cống hiến to lớn trong việc xây dựng, bố trí thế trận quốc phòng toàn dân trong thời kỳ mới.

    Trong cuộc hành trình qua các thời kỳ lịch sử của cách mạng, dù rất bận rộn với công việc của Đảng, đồng chí Lê Đức Thọ vẫn dành thời gian làm thơ ghi lại những suy nghĩ, cảm xúc của mình. Tuy không phải là chuyên nghiệp, tác phẩm không nhiều, nhưng chất thơ của ông lại giàu tính tự sự, ngời sáng chất thép, chan chứa cảm hứng trữ tình, mang hơi thở người chiến sĩ cách mạng yêu thơ và làm thơ ngay từ khi bước vào đời hoạt động cách mạng. Dù bị giam cầm trong ngục tù đế quốc, đấu tranh qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, trong hành trình công tác từ Bắc vào Nam, lên các vùng biên giới, đồng chí Lê Đức Thọ đã sáng tác nhiều bài thơ có giá trị, được tập hợp in trong các tập thơ như: Trên những nẻo đường (1968); Đường ngàn dặm (1977); Nhật ký đường ra tiền tuyến; Thơ tuyển Lê Đức Thọ (1983); Gửi anh bộ đội (1984)… Trong đó nhiều bài có giá trị trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam, đã được đồng bào và chiến sĩ chuyền tay nhau đọc, chép vào sổ tay, mang theo trong hành trang chiến đấu, công tác như bài: “Lòng xuân chiến sĩ”, “Ý xuân”, “Lời anh dặn”, “Điểm tựa”, “Thăm anh”, “Anh chiến sĩ an ninh”, “Tình Miên - Việt”... Những bài thơ  của ông vừa giàu chất thực tế, có tính thời sự sâu sắc, vừa chứa chan tình cảm, lạc quan cách mạng, thiết tha yêu đời, yêu người; nhiều tác phẩm ẩn chứa tình cảm, suy nghĩ sâu sắc và chân thành của một nhà tư tưởng, một nhà hoạt động chính trị tài năng, nhà ngoại giao bản lĩnh, một chiến sĩ cộng sản kiên trung từng vào sinh ra tử trên khắp nẻo đường cách mạng. Thơ Lê Đức Thọ nặng tình non nước, nặng nghĩa với đồng chí, đồng bào, thủy chung với Đảng, với cách mạng và đồng cảm với các chiến sĩ lực lượng vũ trang.

    Trải qua hơn 64 năm hoạt động cách mạng liên tục, gian khổ và rất quang vinh, đồng chí Lê Đức Thọ đã giữ những trọng trách lớn của Đảng và có những cống hiến đặc biệt quan trọng cho cách mạng Việt Nam. Đồng chí đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng và nhiều phần thưởng cao quý khác; Đảng và Nhà nước Liên Xô tặng Huân chương Cách mạng tháng Mười; Đảng và Nhà nước Campuchia tặng Huân chương Ăngco. Ngày 13/10/1990, đồng chí Lê Đức Thọ từ trần tại bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Hà Nội, thọ 79 tuổi.

    Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Đức Thọ đã đem hết tâm sức, tài năng và trí tuệ của mình cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc. Đồng chí là nhà lãnh đạo tài năng của Đảng với những phẩm chất nổi bật: Sự kết hợp chặt chẽ giữa lãnh đạo đường lối với chỉ đạo và tổ chức cụ thể; giữa tính kiên định về nguyên tắc với tính sáng tạo và tinh thần đổi mới trong hành động; giữa lý luận với thực tiễn; giữa lời nói và việc làm trong Xây dựng Đảng cùng với nhiều lĩnh vực: Quân sự - an ninh, ngoại giao, văn hóa nghệ thuật... Những cống hiến xuất sắc của đồng chí có ý nghĩa to lớn, mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những bài học kinh nghiệm mà đồng chí để lại, luôn được các thế hệ cán bộ làm công tác xây dựng Đảng kế thừa, phát huy. Đồng chí xứng đáng như lời nhận xét của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn: “một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại(7), và xứng đáng với những “công trạng to lớn vì Đảng, vì Dân(8) mà Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã tuyên dương./.

Anh Võ

 

 

(1) Theo Hải Vân, Tấm gương người cộng sản kiên trung, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Cổng TTĐT Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 06/10/2021.

(2) Theo Tô Huy Rứa, Những đóng góp của đồng chí Lê Ðức Thọ trong công tác tổ chức xây dựng Ðảng, ngày  08-10-2011.

(3), (5) và (6) (Lúc này, đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư Xứ uỷ Nam bộ) - Nhớ về anh Lê Đức Thọ, NXBCTQG, H.2000, tr.129-136.

(4) Bài tham luận của nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên tại cuộc Hội thảo về Lê Đức Thọ tháng 10 năm 2011.

(7) và (8) Ðiếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đọc tại lễ tang đồng chí Lê Ðức Thọ, ngày 17/10/1990.



Phim tư liệu
  • Phát biểu của đồng chí Lâm Tấn Hòa
  • Ngày hội văn hóa thể thao du lịch đông bào Khmer Nam bộ và Lễ hội Óoc-Om-Bóc Đua ghe Ngo 2022
  • Cuộc thi viết chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch lần thứ Hai - năm 2022
1 2 3 4 5  ... 


No title... No title... No title...
Thống kê truy cập
  • Đang online: 64
  • Hôm nay: 6514
  • Trong tuần: 77,221
  • Tất cả: 11,800,541